Các điều khoản hợp đồng nhượng quyền thương mại trong mối tương quan với pháp luật cạnh tranh

Nguồn hình: Internet

Hợp đồng nhượng quyền thương mại là hình thức cơ bản cho việc thực hiện hoạt động nhượng quyền thương mại, là căn cứ pháp lý cho hoạt động hợp tác của các bên, từ đó phát sinh các quyền và nghĩa vụ của các bên cũng như là cơ sở để giải quyết tranh chấp.

Ở Việt Nam, pháp luật về nhượng quyền thương mại và pháp luật cạnh tranh có mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau. Bài viết phân tích một số vấn đề pháp lý cơ bản của hợp đồng nhượng quyền thương mại trong mối tương quan với pháp luật cạnh tranh. Trên cơ sở đó, nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định về nhượng quyền thương mại.

Đặt vấn đề

Cùng với xu hướng mở cửa hội nhập kinh tế, Việt Nam trở thành thị trường nhượng quyền được chú ý đối với các thương hiệu lớn quốc tế và khu vực. Trong giai đoạn 2007-2018, Việt Nam đã cấp phép cho 213 doanh nghiệp (DN) nước ngoài nhượng quyền tại Việt Nam, trong đó lĩnh vực nhận nhượng quyền thương mại (NQTM) từ các thương hiệu nước ngoài nhiều nhất là chuỗi thức ăn nhanh, nhà hàng chiếm 41,31%; cửa hàng bán lẻ nội thất, mỹ phẩm, bán lẻ hàng hóa tiêu dùng khác… chiếm 15,49%. Việt Nam hiện là một trong 33 quốc gia trên thế giới có hệ thống quy phạm pháp luật riêng biệt để điều chỉnh hoạt động NQTM.

Trong hợp đồng nhượng quyền luôn đề cập đến các điều khoản về phân chia khu vực kinh doanh; phân phối và cung ứng độc quyền sản phẩm, dịch vụ; thỏa thuận giá bán lại; kiểm soát số lượng đầu vào và đầu ra của sản phẩm; hay điều khoản nêu rõ bên nhận quyền không được phép thực hiện các hành vi nhằm cố ý mang lại lợi ích cho bên thứ ba hoặc đối thủ cạnh tranh của bên nhận quyền, hạn chế kinh doanh một loại hàng hóa được chỉ rõ trừ khi hàng hóa đó được bên nhượng quyền cung cấp hoặc bên thứ ba do bên nhượng quyền cho phép; cấm bên nhận quyền bán hàng hóa không mang nhãn hiệu của bên nhượng quyền.

Do đó, việc nghiên cứu các quy định pháp luật về cạnh tranh khi thỏa thuận các điều khoản trong hợp đồng NQTM là cần thiết, nhằm đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh cho hoạt động NQTM.

Điều khoản liên quan đến thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong Hợp đồng nhượng quyền thương mại

Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là hành vi thỏa thuận giữa các bên dưới mọi hình thức gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh. Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được quy định tại Điều 11 Luật Cạnh tranh năm 2018 có liên quan đến hợp đồng NQTM thường tập trung vào các thỏa thuận sau:

Thứ nhất, thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Nếu trong hợp đồng NQTM có điều khoản về ấn định giá bán, thì điều khoản này sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Cạnh tranh, pháp luật về NQTM không quy định vấn đề này. Theo đó, ấn định giá bán là hành vi của một DN trong cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho một DN khác, để ấn định giá bán lại sản phẩm đó nhằm ấn định, duy trì mức giá độc quyền của DN và để ngăn ngừa sự cạnh tranh từ các đối thủ cạnh tranh trên thị trường liên quan (ấn định giá tối thiểu);  hoặc bảo đảm chiến lược bán phá giá của DN (ấn định giá tối đa). Thông thường, hành vi thỏa thuận giá bán trong hợp đồng NQTM được thực hiện dưới hình thức như: Bên nhượng quyền thỏa thuận với các bên nhận quyền giá bán cố định của sản phẩm, bên nhượng quyền thỏa thuận cho bên nhận quyền mức giá bán lại tối đa cho sản phẩm, bên nhượng quyền thỏa thuận cho các bên nhận quyền về giá bán lại tối thiểu cho sản phẩm.

Thứ hai, thỏa thuận phân chia khách hàng, phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Thực chất các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh về khu vực kinh doanh, về khách hàng trong hợp đồng NQTM, trong một chừng mực nhất định, kìm hãm không cho DN khác tham gia thị trường, phát triển kinh doanh hoặc loại bỏ khỏi thị trường những DN không phải là các bên của thoả thuận. Có thể lấy dẫn chứng ở cửa hàng phục vụ lĩnh vực ẩm thực, sẽ bao gồm cả món ăn và thức uống. Khi cửa hàng nhượng quyền muốn đưa bất kỳ sản phẩm nào khác, cùng công dụng, giá thành thì đều phải được sự chấp nhận từ bên nhượng quyền mới có thể đưa vào phục vụ. Các thương hiệu như: KFC, Lotteria, Chicken Express, Subway... gắn liền với các loại thức uống đi kèm là: Pepsi, 7Up, Mirinda, Aquafina. Tất cả sản phẩm này đều là sản phẩm thuộc Công ty Pepsi, khách hàng sẽ không bao giờ tìm thấy sản phẩm thuộc thương hiệu Coca-Cola trong các chuỗi cửa hàng này.

Bên cạnh những thoả thuận thuộc dạng phân chia khu vực kinh doanh, hành vi phân chia thị trường còn biểu hiện ở các thoả thuận về phân chia khách hàng như: Bên nhượng quyền đảm bảo việc không tranh giành khách hàng với bên nhận quyền; cấm bên nhận quyền quảng cáo ngoài phạm vi lãnh thổ được quy định sẵn trong hợp đồng NQTM; bên nhận quyền có nghĩa vụ chỉ bán hàng cho người tiêu dùng. Hiện pháp luật cạnh tranh chưa quy định về vấn đề này.

Trong lĩnh vực NQTM, người tiêu dùng lựa chọn chất lượng sản phẩm đến từ thương hiệu nhượng quyền với những đặc điểm riêng có thể là về sản phẩm, dịch vụ đi kèm theo, hoặc cách thức bố trí kinh doanh. Như kinh doanh dịch vụ ăn uống thì các thỏa thuận về cung ứng nguồn nguyên liệu, sản phẩm dịch vụ kèm theo là phù hợp. Nhưng dưới góc độ pháp luật cạnh tranh, thỏa thuận này ngăn cản DN khác tham gia vào thị trường, gây tác động làm hạn chế cạnh tranh trong cùng thị trường liên quan. Hành vi thỏa thuận phân chia khách hàng, phân chia thị trường tiêu thụ sẽ bị phạt tiền từ 01% đến 10% tổng doanh thu trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm của từng DN là các bên tham gia thỏa thuận; các hình thức xử phạt bổ sung là tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm cùng với biện pháp khắc phục hậu quả như buộc loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng, thỏa thuận hoặc giao dịch kinh doanh.

Thứ ba, thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Các thỏa thuận này hạn chế quyền tự do kinh doanh và khả năng phát triển của bên nhận quyền. Chính vì vậy, để đảm bảo cho sự phát triển của thương hiệu, sản phẩm của mình, bên nhượng quyền sẽ nắm quyền chủ động trong việc quyết định số lượng cửa hàng nhượng quyền trong một quốc gia, khu vực địa lý nhất định. Hoạt động cạnh tranh được thực hiện theo nguyên tắc trung thực, công bằng và lành mạnh, không xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của DN, của người tiêu dùng.

Nếu chiếu theo quy định này thì “khu vực được cung cấp” đã gián tiếp triệt tiêu phần nào quyền tự do lựa chọn của khách hàng, dù là lựa chọn trong cùng mặt hàng của cùng một thương hiệu. Thông thường trong hợp đồng nhượng quyền thương mại, bên nhượng quyền sẽ đề ra các yêu cầu mang tính có lợi cho thương hiệu mình, hoặc bảo đảm cho đối tác kinh doanh của mình. Chính sách nhượng quyền của thương hiệu Pizza Hut đã đưa nghĩa vụ đồng thời cũng là hạn chế đối với bên nhận nhượng quyền, đó là “Người nhượng quyền phải chỉ bán tất cả các sản phẩm được phê duyệt mà bên nhượng quyền chỉ định là tiêu chuẩn cho loại hình nhà nhượng quyền mà nhà hàng hoạt động trừ khi có thỏa thuận khác bằng văn bản”. Vậy thỏa thuận này có thể bị xem là ép buộc, yêu cầu, khuyến nghị doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hiện hoặc không thực hiện việc sản xuất, mua, bán hàng hóa, cung ứng, sử dụng dịch vụ cụ thể hoặc mua, bán hàng hóa, cung ứng, sử dụng dịch vụ với DN cụ thể”.

Nếu thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng nhượng quyền bị cấm thì thỏa thuận của các bên vẫn có thể được miễn trừ có thời hạn nếu đáp ứng một trong các điều kiện như hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng; Hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh; Thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ.

Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong hợp đồng nhượng quyền

Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền là hành vi của DN có vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh. DN được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có sức mạnh thị trường đáng kể hoặc có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan; DN được coi là có vị trí độc quyền nếu không có DN nào cạnh tranh về hàng hóa, dịch vụ mà DN đó kinh doanh trên thị trường liên quan. Việc xác định thị phần của các DN hoặc nhóm DN để nhận diện vị trí thống lĩnh phụ thuộc vào việc xác định thị trường liên quan.

Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường thông thường gây ra hậu quả hạn chế cạnh tranh đối với bên nhận quyền trong mối quan hệ với các bên trong hệ thống nhượng quyền và với các đối thủ cạnh tranh khác ngoài hệ thống. Ngược lại, hành vi lạm dụng vị trí độc quyền trên thị trường chỉ là sự phát triển hơn một chút về mức độ ảnh hưởng của hành vi, năng lực thị trường của chủ thể thực hiện hành vi so với hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Bên lạm dụng vị trí độc quyền là chủ thể độc tôn cung cấp sản phẩm trên thị trường, mà không có đối thủ cạnh tranh.

Mặc dù, bên nhận quyền hoàn toàn độc lập so với bên nhượng quyền xong để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống nhượng quyền nên bằng các điều khoản trong hợp đồng, bên nhượng quyền luôn yêu cầu bên nhận quyền phải có nghĩa vụ tuân thủ theo mô hình kinh doanh của mình, đảm bảo được tính đồng nhất về các yếu tố liên quan đến quy trình kinh doanh. Bên nhượng quyền là bên có quyền lực thị trường, sở hữu một vị trí thống lĩnh, chiếm từ 30% thị phần trên thị trường liên quan, bên này sẽ có thể thực hiện hành vi: “Áp đặt điều kiện cho DN khác ký kết hợp đồng mua, bản hàng hoá, dịch vụ hoặc yêu cầu doanh nghiệp khác, khách hàng chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản DN khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác”.

DN khác được hiểu ở đây là bên nhận quyền. Hoặc viện dẫn lý do đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống NQTM bên NQTMcó thể yêu cầu các bên nhận quyền cung cấp hàng hoá, dịch vụ trên thị trường theo một mức giá nhất định. Nếu ở góc độ quan hệ nhượng quyền thương mại thì nhằm bảo vệ quyền lợi của bên nhượng quyền nói riêng và cả hệ thống nhượng quyền thương mại nói chung. Tuy nhiên, nếu ở góc độ luật cạnh tranh hành vi này sẽ có khả năng trở thành hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh “áp đặt giá mua, giá bán hàng hoá, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng”.

Một số đề xuất về việc thỏa thuận điều khoản của hợp đồng nhượng quyền thương mại

Trên cơ sở các phân tích các nội dung về điều khoản liên quan đến thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng NQTM, các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong hợp đồng nhượng quyền, nhóm tác giả đưa ra một số đề xuất về việc thỏa thuận điều khoản của hợp đồng nhượng quyền thương mại như sau:

Thứ nhất, tăng cường kiểm soát các điều khoản trong hợp đồng NQTM. Các quy định phải dựa trên cơ sở đảm bảo ghi nhận quy luật khách quan của cạnh tranh trong quan hệ NQTM cũng như trên cơ sở ghi nhận những ngoại lệ hợp lý của pháp luật cạnh tranh theo hướng phù hợp với bản chất của hoạt động NQTM, có sự thống nhất giữa pháp luật thương mại với pháp luật cạnh tranh. Chúng ta cần xem xét đến sự tương hỗ, bổ sung cho nhau giữa các quy định pháp luât thương mại với pháp luật cạnh tranh. Hợp đồng giữa bên nhượng quyền và bên nhận nhượng quyền không đủ để gọi là có khả năng gây hạn chế cạnh tranh, nhưng một chuỗi các cửa hàng kinh doanh của một thương hiệu thực hiện nhượng quyền thì khả năng gây hạn chế cạnh tranh là có. Từ góc độ tính chất hạn chế cạnh tranh của những thỏa thuận này có thể thấy rằng một số những quy định riêng áp dụng để điều chỉnh quan hệ đặc biệt nói trên là thực sự cần thiết.

Nội dung của những quy định riêng đó sẽ giúp phân biệt giữa thỏa thuận trong nhượng quyền thương mại với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo quy định của Luật Cạnh tranh, đồng thời ấn định giới hạn mà nếu đi quá giới hạn đó, một thỏa thuận xuất phát từ quan hệ nhượng quyền thương mại sẽ bị coi là vi phạm pháp luật cạnh tranh do mức độ tiêu cực đáng kể đối với cạnh tranh mà thỏa thuận đó gây ra trên thực tế. Có thể xem xét đến việc thay đổi, bổ sung các thỏa thuận của hợp đồng NQTM vào một trong các trường hợp miễn trừ và chỉ bị coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm khi đi quá giới hạn pháp luật cho phép.

Thứ hai, bổ sung hướng quy định về bồi thường thiệt hại, xử phạt vi phạm hành chính đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong NQTM như sau:

(i) Sửa đổi, bổ sung một số quy định điều chỉnh về xử phạt vi phạm hành chính về hạn chế cạnh tranh trong hoạt động NQTM: xem xét bổ sung quy định các nguyên tắc xác định mức phạt tiền, điều chỉnh lại các quy định về các biện pháp phạt bổ sung hoặc các biện pháp khắc phục hậu quả. Mức phạt hiện tại được xác định từ 01% đến 05% tổng doanh thu trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm của từng DN là các bên tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh của các DN kinh doanh ở các công đoạn khác nhau trong cùng một chuỗi sản xuất, phân phối, cung ứng đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định. Bên cạnh xác định hình thức xử phạt chính, pháp luật còn đưa ra hình thức xử phạt bổ sung là tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm. Kết hợp hai hình thức xử phạt này thì số tiền mà DN mất đi khá lớn. Tuy nhiên, có những DN lợi nhuận thu được không chỉ từ một ngành nghề, lĩnh vực mà có thể đa ngành nghề. Chính vì vậy, thiệt hại trong tình huống bị phạt đối với các doanh nghiệp lớn có thể được bù đắp từ các ngành nghề khác và mức độ răn đe đối với các DN.

(ii) Quy định về biện pháp khắc phục hậu quả buộc loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng, thỏa thuận hoặc giao dịch kinh doanh. Các điều khoản thỏa thuận vi phạm pháp luật phải loại bỏ là điều tất yếu. Nhưng có nên hay không việc xem xét áp dụng hình thức xử phạt bổ sung như tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc đình chỉ hoạt động từ 06 tháng đến 12 tháng đối với các DN có hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực NQTM. Hiện nay, các hình thức xử phạt bổ sung này chỉ đang được áp dụng đối với hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của DN khác, hành vi lôi kéo khách hàng bất chính, hành vi cung cấp thông tin, vận động, kêu gọi, ép buộc hoặc tổ chức để DN thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh.

(iii) Phối hợp đồng bộ các giải pháp khác để việc thực thi pháp luật đạt hiệu quả.

Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật của các chủ thể trên thị trường. Công tác này đòi hỏi thời gian lâu dài và ý thức từ phía các DN. Quan trọng hơn là các cơ quan chức năng cần giúp DN nhận thức rõ được mất khi thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, hậu quả pháp lý đồng thời giúp DN nâng cao đạo đức kinh doanh, tinh thần trách nhiệm xã hội. Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý về cạnh tranh trên thị trưởng, tăng cường công tác tranh tra, xử lý vi phạm đối với hành vi hạn chế cạnh tranh trong NQTM.

Tóm lại, việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật liên quan về cạnh tranh trong hoạt động NQTM là cần thiết nhằm bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh cho hoạt động NQTM diễn ra ngày một sôi động tại Việt Nam. Đồng thời, cũng giúp các DN có thể tránh được các kiện tụng liên quan đến các hành vi hạn chế cạnh tranh. 

Để được tư vấn về nhượng quyền và pháp lý trong nhượng quyền, vui lòng LIÊN HỆ qua info@vnfranchise.vn.

Tài liệu tham khảo:

1.Quốc hội (2005), Luật Thương mại số 36/2005/QH11;

2,Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự số 33/2015/QH11;

3.Chính phủ (2006), Nghị định số 35/2006/NĐ-CP quy định chi tiết luật thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại;

4.Hằng Nga (2009), Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại, NXB Tổng hợp TP.Hồ Chí Minh, tr.57;

5.Hoàng Thị Thúy (2016), Thực trạng nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, Tạp chí Tài Chính, http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu–trao-doi/trao-doi-binh-luan/thuc-trang-nhuong-quyen-thuong-mai-tai-viet-nam-110262.html;

6.Ngô Quốc Chiến (2017), Đề xuất sửa đổi một số quy định liên quan đến nhượng quyền thương mại, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Viện nghiên cứu lập pháp, Số 05 (333), tr.15-25;

7.Nguyễn Bá Bình (2008), “Hợp đồng nhượng quyền thương mại thương mại có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Luật học số 05, tr.10;

8.Nguyễn Thị Phương Thảo, Học viện Ngân Hàng, Nhượng quyền thương mại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, Tạp chí con số và sự kiện, http://consosukien.vn/nhuong-quyen-thuong-mai-viet-nam-thuc-trang-va-giai-phap.htm, truy cập lúc 8h ngày 19/6/2021;

9.Nguyễn Trọng Điệp (2018), Thực tiễn thi hành pháp luật về thương mại tại Việt Nam hiện nay dưới góc nhìn tham chiếu với yêu cầu của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Luật học, Tập 34, Số 2 (2018) 54-64;

19.Trần Thùy Linh, Đồng Đức Huy (2017), Hợp đồng nhượng quyền thương mại và nguy cơ xác lập hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, Tạp chí Kinh tế và quản trị kinh doanh, số 04, tr.23 – 27;

11.Trương Thùy Ninh (2020), Đẩy mạnh hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, Tạp chí Tài chính, Bộ Tài chính, Số 741 (Kỳ 2, Tháng 11/2020), tr. 34-36.

(*) Ngô Thị Duyên, Nguyễn Thị Hương Thảo – Khoa Kinh tế Luật, Trường Đại học Tài chính Marketing.

(**) Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số kỳ 2 tháng 9/2021

TẠP CHÍ TÀI CHÍNH

Bài viết liên quan

VNFranchise - Trang Nhượng Quyền Thương Hiệu Số 1 Việt Nam

Đăng Ký Nhận Tin Tức Mới Nhất Về Nhượng Quyền Thương Hiệu

vnfranchise vnfranchise